Lịch sử hoạt động Kaiser_(lớp_thiết_giáp_hạm)

Prinzregent Luitpold trên đường đi trước chiến tranh

Trước chiến tranh

Vào những năm 1913-1914, Kaiser và König Albert tham gia vào một chuyến đi đến Nam MỹNam Phi với mục đích phô trương lực lượng của Đức đồng thời thử nghiệm độ tin cậy của các động cơ turbine mới trong các chuyến đi đường trường. Cả hai chiếc đã quay về căn cứ của Đức tại Bắc Hải vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra.[5]

Bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby

Hoạt động lớn đầu tiên trong chiến tranh mà những chiếc thuộc lớp Kaiser tham gia là cuộc bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby vào ngày 15-16 tháng 12 năm 1914. Nó được tiến hành chủ yếu bởi các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 dưới quyền Franz von Hipper, được những chiếc trong lớp Kaiser phối hợp cùng các lớp Nassau, HelgolandKönig di chuyển hỗ trợ từ xa. Đô đốc Friedrich von Ingenohl, Tư lệnh Hạm đội Biển khơi Đức, quyết định chiếm lấy vị trí ở khoảng giữa Bắc Hải, cách 130 nmi (240 km) về phía Đông Scarborough.[12]

Hải quân Hoàng gia Anh, trước đó đã bắt được các bảng mật mã Đức từ chiếc tàu tuần dương Magdeburg bị mắc cạn, nhận biết một chiến dịch đang được tiến hành, nhưng không biết chắc nơi lực lượng Đức sẽ tấn công. Vì vậy, Bộ hải quân Anh ra lệnh cho Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 dưới quyền Đô đốc David Beatty, sáu thiết giáp hạm thuộc Hải đội Chiến trận 2 cùng nhiều tàu tuần dương và tàu khu trục ngăn chặn các tàu chiến-tuần dương Đức.[12] Tuy nhiên, hướng di chuyển lực lượng của Beatty hầu như đâm đầu thẳng vào toàn bộ Hạm đội Biển khơi. Lúc 6 giờ 20 phút, các tàu khu trục hộ tống cho lực lượng của Beatty bắt gặp xuồng phóng lôi Đức V155. Việc này đã dẫn đến một cuộc đối đầu lẫn lộn kéo dài hai giờ giữa các tàu khu trục Anh và lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục Đức, hầu hết ở khoảng cách rất gần. Vào lúc này của cuộc chạn trán đầu tiên, các thiết giáp hạm lớp Kaiser ở một vị trí cách các thiết giáp hạm dreadnought Anh không đầy 10 hải lý (19 km), hoàn toàn nằm trong tầm bắn; nhưng trong bóng đêm, các đô đốc của cả Anh lẫn Đức đều không thể nhận biết thành phần của hạm đội đối phương. Đô đốc Ingenohl, không dám bất tuân chỉ thị của Kaiser (Hoàng đế Đức) rằng không được mạo hiểm hạm đội chiến trận khi không có sự chấp thuận rõ ràng, kết luận rằng hạm đội của ông đang phải đối đầu với lực lượng hộ tống của toàn bộ Hạm đội Grand Anh Quốc, và 10 phút sau khi bắt gặp đối phương, ông ra lệnh bẻ lái sang mạn phải theo hướng Đông Nam. Các cuộc tấn công tiếp nối đã làm chậm trễ việc đổi hướng, nhưng đến 6 giờ 42 phút, nó được tiến hành.[13] Trong khoảng 40 phút, hai hạm đội di chuyển theo một hướng song song; và đến 7 giờ 20 phút, Ingenohl ra lệnh bẻ lái hơn nữa sang mạn phải, đưa các con tàu của mình theo một hành trình quay về vùng biển Đức.[14]

Bắn phá Yarmouth và Lowestoft

Xem thêm thông tin: Bắn phá Yarmouth và Lowestoft

Những chiếc trong lớp Kaiser đã tham gia một cuộc bắn phá khác xuống bờ biển Anh Quốc, một lần nữa hỗ trợ cho các tàu chiến-tuần dương của Đội Tuần tiễu 1. Các tàu chiến-tuần dương khởi hành từ Jade Estuary lúc 10 giờ 55 phút ngày 24 tháng 4 năm 1916, và phần còn lại của Hạm đội Biển khơi lên đường tiếp theo lúc 13 giờ 40 phút. Tàu chiến-tuần dương Seydlitz trúng phải một quả thủy lôi trên đường đi đến mục tiêu, nên bị buộc phải rút lui.[15] Các tàu chiến-tuần dương khác tiến hành bắn phá Lowestoft mà hầu như không gặp sự kháng cự, nhưng trên đường đi đến Yarmouth, chúng đụng độ với các tàu tuần dương Anh thuộc Lực lượng Harwich. Một cuộc đấu pháo ngắn ngủi diễn ra trước khi Lực lượng Harwich rút lui. Các báo cáo về hoạt động của tàu ngầm Anh tại khu vực đã buộc Đội Tuần tiễu 1 phải rút lui. Vào lúc này, Đô đốc Reinhard Scheer nhận được cảnh báo về việc Hạm đội Grand đã khởi hành từ căn cứ của chúng ở Scapa Flow, ông ra lệnh rút lui về vùng biển Đức an toàn hơn.[16]

Trận Jutland

Xem thêm thông tin: Trận Jutland

Bốn trong số năm chiếc trong lớp đã tham gia cuộc xuất quân của hạm đội vốn đã đưa đến trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916; König Albert đang ở trong ụ tàu vào lúc đó. Hoạt động này là một nỗ lực lặp lại các kế hoạch trước đây dự định thu hút một phần Hạm đội Grand để tiêu diệt chúng. Kaiser, Kaiserin, Prinzregent Luitpold cùng với Friedrich der Grosse, soái hạm của Đô đốc Scheer, hình thành nên Đội 6 trực thuộc Hải đội Chiến trận 3. Hải đội này là lực lượng đầu tiên trong số ba đơn vị thiết giáp hạm Đức; tuy nhiên, những chiếc thuộc lớp König thuộc Đội 3 của Hải đội Chiến trận 3 mới là đơn vị đi tiên phong của hạm đội. Ngay phía sau những chiếc lớp Kaiser là những chiếc lớp HelgolandNassau thuộc Hải đội Chiến trận 2, và sau cùng là các thiết giáp hạm tiền-dreadnought lớp Deutschland già cỗi thuộc Hải đội Chiến trận 1.[17]

Không lâu trước 16 giờ 00 giờ Trung Âu,[Ghi chú 5] các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 đối đầu với Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Đô đốc David Beatty. Các lực lượng đối địch bắt đầu một cuộc đấu pháo, vốn đã đưa đến việc phá hủy chiếc HMS Indefatigable không lâu sau 17 giờ 00,[18] rồi đến lượt HMS Queen Mary không đầy nữa giờ sau đó.[19] Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương Đức di chuyển về phía Nam nhằm thu hút các tàu chiến Anh về phía lực lượng chủ lực của Hạm đội Biển khơi. Đến 17 giờ 30, thiết giáp Đức dẫn đầu König nhìn thấy cả Đội Tuần tiễu 1 của Đức bên mạn phải lẫn Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 của Anh bên mạn trái. Đến 17 giờ 45 phút, Scheer ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°) sang mạn trái để đưa các con tàu của ông đến gần hơn các tàu chiến-tuần dương Anh.[20] Lệnh khai hỏa được đưa ra không lâu sau đó; tuy nhiên ngoại trừ Prinzregent Luitpold, những chiếc khác trong lớp Kaiser chưa lọt vào tầm bắn để có thể đối đầu với các tàu chiến-tuần dương Anh. Prinzregent Luitpold xoay xở bắn được tám loạt đạn pháo ở khoảng cách 22.300–21.300 yd (20.400–19.500 m) trước khi khoảng cách bị nới rộng, buộc nó phải ngừng bắn. Vào lúc đó, Kaiser và Friedrich der Grosse cùng với các thiết giáp hạm của Hải đội Chiến trận 2 nằm trong tầm bắn với Hải đội Tuần dương nhẹ 2 của Anh. Tuy nhiên, hỏa lực áp đảo của mười thiết giáp hạm lại ảnh hưởng đến việc trinh sát tác xạ, nên chỉ sau vài loạt đạn pháo hầu hết đã ngừng bắn.[Ghi chú 6][21]

SMS Kaiser với dàn pháo chính xoay sang mạn phải

Vào khoảng 19 giờ 00, tàu tuần dương Wiesbaden, trước đó đã bị đối phương đánh bất động, bắt đầu chịu đựng hỏa lực từ lực lượng tuần dương nhẹ của Anh; vì vậy Scheer ra lệnh cho các con tàu của ông đổi hướng để hỗ trợ hầu có thể kéo con tàu. Đến 19 giờ 05 phút, các tàu tuần dương bọc thép Anh DefenceWarrior bắt đầu nổ súng vào chiếc Wiesbaden đã bị đánh hỏng. Tuy nhiên, lúc 19 giờ 15 phút, các tàu chiến-tuần dương của Hipper cùng các thiết giáp hạm của Hải đội 3 xuất hiện, bắt đầu tấn công các con tàu Anh ở khoảng cách không đầy 8.000 yd (7.300 m). Kaiser cùng ba chiếc lớp König tập trung hỏa lực vào hai chiếc tàu tuần dương, cho đến khi một hầm đạn của Defence bị đánh trúng, gây một vụ nổ dữ dội vốn đã phá hủy con tàu. Bị hư hại nặng và bốc cháy, Warrior cố tìm cách lết về hướng các thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth thuộc Hải đội Chiến trận 5.[22]

Trong khi Warrior rút lui về phía Bắc dưới sự che chở của màn khói của chính nó, thiết giáp hạm Warspite tiến đến quá gần chiếc tàu chị em với nó Valiant, và phải bẻ lái sang mạn phải để tránh va chạm. Vào lúc đó, một quả đạn pháo của Kaiser đã đánh trúng đuôi chiếc Warspite, làm kẹt bánh lái, tạm thời khiến con tàu chỉ có thể di chuyển theo một vòng tròn rộng.[23] Friedrich der Grosse, König, hai chiếc lớp Nassau và ba chiếc lớp Helgoland nả pháo vào Warspite trong khoảng 20 phút; nó bị đánh trúng 11 lần trước khi lực lượng Đức mất dấu mục tiêu.[24] Vì bánh lái của nó không thể sửa chữa thích đáng, Warspite bị buộc phải rút lui khỏi trận chiến;[25] sự vắng mặt của nó đã khiến phía Đức tin rằng họ đã đánh chìm được nó.[26]

Sau khi quay về vùng cửa sông Jade, các chiếc Nassau, WestfalenPosen thuộc lớp Nassau cùng các chiếc HelgolandThüringen thuộc lớp Helgoland chiếm lấy các vị trí canh phòng bên ngoài vũng biển. Hầu như không bị hư hại trong trận chiến, Kaiser, Kaiserin và Prinzregent Luitpold đảm trách các vị trí phòng ngư bên ngoài các lối ra vào Wilhelmshaven. Các tàu chiến chủ lực khác còn trong tình trạng chiến đấu được tiếp đạn và tiếp nhiên liệu.[27]

Trong quá trình trận chiến, Kaiser đã bắn 224 quả đạn pháo hạng nặng và 41 đạn pháo hạng hai; Kaiserin, 160 và 135; Prinzregent Luitpold, 169 và 106; còn Friedrich der Grosse là 72 và 151 quả đạn pháo tương ứng.[28] Chiếc duy nhất trong lớp bị bắn trúng trong trận chiến, Kaiser, bị đánh trúng hai lần, nhưng chỉ bị hư hại nhẹ với một người bị thương.[29]

Chiến dịch Albion

Xem thêm thông tin: Chiến dịch Albion

Vào đầu tháng 9 năm 1917, sau khi Đức chiếm được cảng Riga của Nga, Hải quân Đức quyết định xóa sổ lực lượng Hải quân Nga vốn còn đang trụ lại vịnh Riga. Nhằm mục đích này, Bộ Tổng Tư lệnh Hải quân (Admiralstab) vạch ra một chiến dịch tại quần đảo Moonsund, đặc biệt nhắm vào các khẩu đội pháo Nga trên bán đảo Sworbe thuộc Ösel.[30] Ngày 18 tháng 9, mệnh lệnh được đưa ra cho một chiến dịch phối hợp Lục-Hải quân nhằm chiếm các đảo Ösel và Moon; lực lượng hải quân chủ yếu bao gồm soái hạm Moltke cùng với Hải đội Chiến trận 3 của Hạm đội Biển khơi, gồm có Đội 5 bao gồm bốn chiếc lớp König, lúc này được bổ sung chiếc thiết giáp hạm mới Bayern, và Đội 6 bao gồm năm chiếc lớp Kaiser. Cùng với chín tàu tuần dương hạng nhẹ, ba chi hạm đội tàu phóng ngư lôi cùng nhiều tàu rải mìntàu quét mìn, toàn bộ lực lượng bao gồm khoảng 300 tàu chiến, được sự hỗ trợ của trên 100 máy bay và sáu khí cầu zeppelin. Lực lượng tấn công gồm khoảng 24.600 sĩ quan và binh sĩ.[31] Đối đầu với lực lượng Đức là các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ của Nga SlavaTsarevitch, các tàu tuần dương bọc thép Bayan, Admiral Makarov và Diana, 26 tàu khu trục, nhiều tàu phóng lôi và pháo hạm, cùng một lực lượng đồn trú tại Ösel với khoảng 14.000 người cùng các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải.[32]

SMS Kaiser trong một lễ hội tại Kiel vào tháng 6 năm 1913. Chiếc thuyền buồm hoàng gia Hohenzollern đang nằm ở phía hậu cảnh

Chiến dịch bắt đầu vào ngày 12 tháng 10, khi những chiếc trong lớp thiết giáp hạm Kaiser đối đầu với các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải tại bán đảo Sworbe. Cùng lúc đó, Moltke, Bayern và các chiếc lớp König cũng bắt đầu bắn phá các khẩu đội Nga trong vịnh Tagga. Sự kháng cự kịch liệt của đối phương tại Kassar Wick, lối ra vào eo biển Moon, làm chậm sự tiến quân của lực lượng Đức. Sang ngày 14 tháng 10, Kaiser được cho tách ra từ lực lượng bắn phá để đối phó với các tàu khu trục Nga đang ngăn cản các tàu quét mìn Đức. Dưới sự hỗ trợ từ các khẩu pháo 30,5 cm của Kaiser, các tàu phóng lôi Đức đột nhập vào eo biển. Trong cuộc đối đầu, tàu khu trục Nga Grom bị đánh bất động và cuối cùng bị đánh chìm.[33]

Các khẩu đội pháo bờ biển 30,5 cm của Nga tại Zerel tiếp tục là một trở ngại đáng kể, nên khi Kaiser đang đối phó với các tàu khu trục Nga, Kaiserin, König Albert và Friedrich der Grosse đã bắn phá Zerel ở khoảng cách 7,5–12,5 dặm (12,1–20,1 km). Hỏa lực bắn trả của Nga tỏ ra khá chính xác, các chiếc dreadnought Đức buộc phải liên tục thay đổi đường đi để né tránh không bị bắn trúng. Cuộc tấn công chỉ kéo dài trong khoảng một giờ, do mối e ngại về thủy lôi và tàu ngầm đối phương.[34] Sáng hôm sau, hai thiết giáp hạm lớp König được gi đến eo biển Moon để tiêu diệt các tàu chiến Nga tại đây. König đã đánh chìm thiết giáp hạm tiền-dreadnought Slava, trong khi Kronprinz buộc các tàu chiến còn lại phải rút lui.[35] Đến ngày 20 tháng 10, chiến dịch hải quân xem như hoàn tất; các tàu chiến Nga đã bị tiêu diệt hoặc buộc phải rút lui, và phía Đức đạt được những mục tiêu đề ra.[36]

Số phận

Thiết giáp hạm Kaiser đang trên đường di chuyển đến Scapa Flow vào ngày 21 tháng 11 năm 1918

Sau khi đạt được thỏa thuận đình chiến vào tháng 11 năm 1918, phần lớn Hạm đội Biển khơi dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter bị lưu giữ tại căn cứ hải quân của Anh ở Scapa Flow trong suốt thời gian diễn ra cuộc đàm phán mà cuối cùng đã đưa đến Hiệp ước Versailles. Reuter tin rằng người Anh sẽ chiếm các con tàu Đức vào ngày 21 tháng 6, vốn là thời hạn mà Đức phải ký hiệp ước hòa bình. Không biết rằng thời hạn trên đã được lùi lại đến ngày 23 tháng 6, Reuter quyết định trong cơ hội sớm nhất sẽ đánh đắm các con tàu của ông. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành các cuộc cơ động huấn luyện, Reuter nhân cơ hội ấy truyền đạt mệnh lệnh đánh đắm hạm đội lúc 10 giờ 00.

Friedrich der Grosse là chiếc đầu tiên của hạm đội bị đánh đắm, chìm lúc 12 giờ 16 phút. Nó được trục vớt vào ngày 29 tháng 4 năm 1937 và được kéo đến Rosyth để tháo dỡ; chiếc chuông của con tàu được hoàn trả về Đức vào năm 1965, và đang được lưu giữ tại Tổng hành dinh Hạm đội ở Glücksburg. König Albert tiếp nối lúc 12 giờ 54 phút, là chiếc thứ hai của hạm đội bị đánh đắm; con tàu được cho nổi lên vào ngày 31 tháng 7 năm 1935 và được tháo dỡ tại Rosyth trong năm tiếp theo. Kaiser chìm lúc 13 giờ 25 phút, và được trục vớt vào ngày 20 tháng 3 năm 1929; việc tháo dỡ được tiến hành tại Rosyth vào năm 1930. Prinzregent Luitpold chìm năm phút sau đó; nó được trục vớt vào ngày 9 tháng 7 năm 1931 và tháo dỡ tại Rosyth. Kaiserin, chiếc cuối cùng trong lớp bị đánh đắm, chìm lúc 14 giờ 00; nó được cho nổi lên vào ngày 14 tháng 5 năm 1936 và được tháo dỡ cùng năm đó tại Rosyth.[5]